Khái quát lịch sử mỹ thuật việt nam

Thời kỳ Đồ Đá

  • Núi Đọ: công cụ bằng đá được ghè đẻo thô sơ, có hình dáng cân xứng, bước vào giai đoạn tiền thị tộc.
  • Văn hoá Sơn vi: săn bắt, hái lượm,dùng đá cuội để chế tác công cụ, biết dùng lửa. tín ngưỡng đã biết tin về 1 thế giới sau khi chết.
  • Văn hoá Hoà Bình:
    • có nông nghiệp, biết trồng trọt
    • sử dụng công cụ bằng đá, xương

kết luận:

Bước đầu các nghệ nhân nguyên thủy đã bộc lộ khả năng quan sát, thể hiện đặc điểm đặc trưng của một số sự vật, hình tượng. Tỷ lệ tương đổi cân đối. Ở một số hình còn thể hiện ý thức bố cục. Ngoài khả năng vẽ hình, người nguyên thủy Việt Nam còn bắt đầu tìm cách sử dụng màu để vẽ trên các bình gốm hoặc nhuộm những mảnh đá, vỏ sò, vỏ ốc, những vật thiêng dành cho người đã mất.

Một số hình khắc người và thú ở hang Đồng Nội, những trang trí trên đồ đá, đồ trang sức và đặc biệt là đồ gốm thời đá mới đã cho thấy sự đặc sắc của tạo dáng và trang trí bằng hoa văn hình học. Từ dáng rìu tứ giác mài lưỡi Bắc Sơn là một trong những chiếc rìu đẹp xuất hiện sớm trên thế giới đến kiểu dáng và hoa văn trang trí các đồ gốm Hạ Long- Hoa Lộc đã cho thấy cảm hứng phong phú của người Việt cổ. “Ít có đồ gốm thời đá mới trang trí hình học phong phú như ở Việt Nam” (Nguyễn Quân). Mạp dù phải đến khi xã hội hình thành, những dấu vết về nghệ thuật tạo hình mới xuất hiện, nhưng những hoạt động sáng tạo này đã đặt những viên gạch đầu tiên để tạo nền móng cho nghệ thuật tạo hình dân tộc sau này tiếp tục phát triển.

Thời kỳ mỹ thuật xác lập bản sắc văn hoá việt (Từ 2000 năm TCN đến đầu CN)

Lãnh thổ Việt Nam tồn tại 3 trung tâm văn hóa lớn: Đông Sơn (miền Bắc ), Sa huỳnh (miền Trung ) và Đồng Nai (miền Nam).

Thời kỳ Đông Sơn và Tiền Đông Sơn

Văn hóa Đông Sơn hình thành trực tiếp từ ba nền văn hóa ở lưu vực sông Hồng, sông Cả, sông Mã. Các nền văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun thuộc giai đoạn đồng thau từ khoảng 2000 đến 700 năm TCN.

Vào khoảng thế kỷ VII TCN, các văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương, tiến tới chỗ hòa chung vào một văn hóa thống nhất - văn hóa Đông Sơn. Đó cũng là lúc các nhóm bộ lạc liên kết lại trong một quốc gia: nước Văn Lang trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt - Trung cho đến bờ sông Gianh (Quảng Bỉnh).

Đến khoảng 253 trước công nguyên, trên cơ sở những thành tựu của thời Văn Lang, vua An Dương Vương xây dựng nhà nước Âu Lạc, là một quốc gia hùng mạnh có nền văn hóa phát triển cao về vật chất và tinh thần ở Đông Nam Á

      • Phùng Nguyên:
          • Sơ kỳ thời đại Đồng thau
          • Đồ gốm được làm bằng bàn xoay, thành gốm mỏng, mặt ngoài thường tráng một lớp nước phủ nhẵn màu hồng xẫm, hồng nhạt hoặc nâu. Đồ đựng, đồ nấu có số lượng nhiều nhất. Được trang trí hoa văn phong phú. ngoài ra, có các loại khác như dọi xe sợi, đạn tròn,
          • Điêu khắc: Tượng người đàn ông ở Văn Điển, tượng gà, bò...
      • Đồng đậu
          • Trung kỳ thời đại Đồng thau
          • Gốm
      • Gò Mun
          • Hậu kỳ thời đại Đồng thau, xuất hiện sắt
          • Gốm
      • Đông Sơn
          • Sơ kỳ thời đại Đồng thau
          • Gốm
          • Trống Đồng,

Thời kỳ giao lưu

Đặc điểm mỹ thuật thời kỳ hình thành cơ tầng văn hóa nghệ thuật bản địa (thời tiền sử)

Cơ tầng văn hóa nghệ thuật bản địa là tầng lớp văn hóa cội rễ ban đầu của một địa bàn dân tộc làm nền móng cho sự phát triển văn hóa của các giai đoạn kế tiếp. Cơ tầng văn hóa bản địa Việt Nam hình thành từ thời tiền sử ở trong bối cảnh với các nước Đông Nam Á mà trên lãnh thổ Việt Nam là những chứng tích ở Núi Đọ, Sơn Vi, Hòa Bình.

Thời kỳ này mực nước biển còn thấp hơn khoảng 100 m so với ngày nay. Xen kẽ những thời kỳ hạn là thời kỳ mưa nhiều, khí hậu ẩm và mát hơn bây giờ, bầy người vượn sống dựa vào hang đá, lùm cây. Sống bằng cách hái lượm và săn bắt.

Tại núi Đọ (Thanh Hóa) đã phát hiện hàng vạn công cụ do người vượn ghè đẽo thô sơ gồm những mảnh tước, những công cụ chặt và một số rìu tay và nạo được ghè đẽo nhiều hơn, có hình dáng cân xứng hơn dùng để cắt, chặt và xẻ thịt. Di chỉ núi Đọ thuộc về thời kỳ tổ chức xã hội đang hình thành. Người vượn đã vượt qua giai đoạn tạp hôn và bước vào giai đoạn tiền thị tộc.

Đến văn hóa Sơn Vi thuộc hậu kỳ đá cũ (khoảng 10 000 TCN) trên đất nước Việt Nam đã có người khôn ngoan (Homo- sapiens) cư trú. Đây là các bộ lạc săn bắt, hái lượm,dùng đá cuội để chế tác công cụ. Dựa vào kỹ thuật chế tác giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng họ đã có tư duy phân loại, đó là sự lựa chọn nguyên liệu đá và trong sự đa dạng của các loại hình công cụ. Người nguyên thủy đã biết dùng Ịửa. Họ chôn người chết cùng với những công cụ ngay nơi cư trú đã nói lên niềm tin của người nguyên thủy về một thế giới khác, mà ở đó người chết vẫn tiếp tục ”sống"

Tại nhiều nơi khác trên đất nước ta từ Sơn La đến Đồng Nai cũng đã tìm thấy nhiều công cụ chặt và rìu tay.

(Ảnh)

Rìu chặt, rìu tay và nạo (Núi Đọ, Thanh Hóa)

Thời đồ đá cũ cách nay 300.000 năm

Riu tay và riu chặt (Giai đoạn đổ đá cũ — tlm thấy tại miền Đông Nam Bộ)

Cách naỵ khoảng một vạn nặm đã có những thay đổị quan trọng. Loài người bước vào thời đại đồ đá giữa. Tiêu biểu cho cho giai đoạn này là văn hóa Hòa Bình (do nhà khảo cổ học người Pháp Madelene Colani phát hiện), cư dân văn hóa Hòa Bình sống chủ ỵếu trong các hang động núi đá vôi, vẫn sống chủ yếu bằng săn bắn và hái lượm. Gần đây, người ta đã tim thấy hạt và quả của nhiều loại cây thuộc họ rau đậu, bầu bí chứng tỏ nền nông nghiệp sơ khai đã xuất hiện trong lòng văn hóa Hòa Bình.

Tại hang Đồng nội (xã Đồng Tâm, h. Lạc Thủy, t. Hòa Binh) đã phát hiện 4 hinh khắc trên vách hang sâu tới 2cm. Đó là hình đầu người đàn ông có khuôn mặt gần vuông caọ 31 cm, rộng 34 cm, có đầy đủ mắt mũi miệng và lông mày. Hình đầu người phụ nữ có khuôn mặt hình bán nguyệt cao 13 cm, rộng 18 cm, có mắt mũi miệng nhưng không có lông mày nên trông dịu dàng hơn. Hình đầu người phía trong có kích thước nhỏ hơn, có lẽ đó là đầu một em bé. Đặc biệt cả 3 hình đều có hình gần giống chữ Y (có lẽ là một cách hóa trang để đi săn hoặc cũng có thể là một nghi lễ gắn với hình thức thờ phụng của ngươi Việt cổ).

Bốn hình khắc trên vách hang Đồng nội một mặt chứng tỏ tư duy hình tượng và nghệ thuật của người Việt thời đồ đá giữa đã tiến thêm một bước. Họ đã bộc lộ khả năng quan sát và thể hiện tỷ lệ mặt người, thú tương đối cân đối và hoàn thiện, ngoài ra còn thể hiện tài năng khéo léo với nét chạm khắc thoáng đạt phong phú và độ sâu to nhỏ cứng cáp hoặc mềm mại. Qua đó cũng đã cho chúng ta có thể suy đoán hiểu biết về con người và cuộc sống của họ.

(Ảnh)

Hàng loạt các di tích khác đã chứng tỏ điều này: hang Lam gan (Hòa Bình) thấy một hình cành cây trên một mũi dùi bằng xương, ở Làng bon (Yên lạc-Quảng Ninh) có hình cành lá trên viên đá cuội, hang Nà ca, hang Đông kỵ (Thái Nguyên) tìm thấy những viên đá có khắc những vạch chéo tản ra như nan quạt và giống hình mặt người... Những hình khắc trên có vẻ bí hiểm chắc có liên quan đến tín ngưỡng nào đó của chủ nhân nguyên thủy.

Vào thời kỳ đồ đá mới (-6000 đến -2000) với sự xuất hiện của nông nghiệp cùng việc sản xuất đồ gốm đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong đời sống con người, từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất. Cũng nhờ phương thức sản xuất mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn. Cho tới nay, các nhà khảo cổ học đã định danh được một số văn hóa, phân bố từ bắc vào nam như mở đầu là văn hóa Bắc sơn tiếp đến là văn hóa Hà giang, văn hóa Mai pha (Lạng sơn), văn hóa Quỳnh văn (Nghệ an), văn hóa Bàu tró (Quảng bình), văn hóa Hạ long (Quảng ninh), Văn hóa Đa bút (Thanh hóa), và những nhóm di tích tại các khu vực vùng núi Tây bắc, vùng Trung bộ, Tây nguyên và Đông nam bộ với những làng định cư lâu dài, ổn định, trong đó bên cạnh quan hệ dòng máu đã xuất hiện ngày càng nhiều những quan hệ láng giềng phức tạp.

Về mặt văn hóa do đặc diểm về địa lý và tổ chức xã hội nên đã tách ra những vùng văn hóa mang đặc điểm khác nhau, nhưng những hiện vật liên quan tới mỹ thuật đều được chế tạo từ đá và gốm.

Các công cụ bằng đá, đồ gốm, đồ trang sức được chế tạo khéo léo, chủng loại phong phú mang tính thẩm mỹ cao, ngoài ý nghĩa thực dụng chúng còn là những tác phẩm nghệ thuật. Họ đã biết sử dụng kỹ thuật mài đá, đầu tiên là rìu tứ giác mài lưỡi Bắc sơn với hinh dáng cân đối, tiếp đến xuất hiện rìu có vai, rìu có nấc ở văn hóa Hạ long đến văn hóa Đa bút xuất hiện rìu có vai hơi lệch tiền thân rìu lưỡi xéo sau này.

Những đồ gốm đầu tiên được làm bằng khuôn đan, tiếp đến nặn bằng tay rồi bằng bàn xoay nên kiểu dáng ngày càng phong phú và hoa văn trang trí đa dạng. Bắt đầu là những dấu nan đan, dấu vân tay rồi xuất hiện hoa văn khắc vạch, văn thừng, văn vạch ngắn song song, hoặc cắt chéo nhau tạo thành những ô quả trám, hình chữ S, hoa văn hình tròn, hình hoa bốn cánh, sáu cánh.... Chứng tỏ rằng cư dân thời này đã hình thảnh mỹ cảm. Đặc biệt các hoa văn hình tròn biểu hiện mặt trời phản ánh tư duy về thời gian, về tín ngưỡng thờ mặt trời. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành một loại nông lịch sơ khai và có tín ngưỡng Thần nông..

Tóm lại, các cư dân Đông Nam Á trong đó có người Việt thời tiền sử đã có những thành tựu vật chất và tinh thần, đặc biệt là nghề nông, tiêu biểu là nghề trồng lúa. Những thành tựu ấy làm nền tảng cho thời kỳ văn hóa Đông Sơn, thời kỳ xác lập bản sắc văn hóa Việt.

Rìu tứ giác mải lưỡi Bắc Sơn

Rìu có vai, rìu có nấc

Văn hóa Hạ Long (Quảng Ninh )

Rìu tứ giác, rìu có vai, rìu cổ nấc mài lưỡi (đồ đá mới Đông Nam Bộ )

Các loại rìu đá tìm thấy tại Lung Leng (Tây Nguyên)

Theo sách “Mỹ thuật của người Việt" của Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng đồ gốm Hoa Lộc (Thanh Hóa) cuối thời đồ đá mới có một bước nhảy vọt. Các vật dụng đều được làm bằng bàn xoay, kiểu dáng phong phú, độ nung khá cao (khoảng 600 độ), tất cả đều được trang trí hoa văn hình học với 18 loại hoa văn phối hợp với nhau tạo thành 40 đồ án trang trí bảo đảm bốn nguyên tắc: nhịp điệu có chu kỳ và biến đổi, đường nét khúc chiết và các khoảng hở nhắc lại ờ tuyến phát triển, và quay ngược chiều tuyến phát triển, phối hợp chấm và gạch.

Một số đồ gốm tìm được ở Minh cầm, Bàu Tró (Quảng Bình) còn được trang trí bằng những băng màu đỏ rộng từ 10 mm đến 25 mm và những vỏ ốc, rìu đá được nhuộm màu đỏ cùng với những miếng thổ hoàng đỏ chôn theo người chết.

(Ảnh)

d). Nhận xét chung về mỹ thuật nguyên thủy Việt Nam

Những hiện vật liên quan tới tư duy thẩm mỹ nghệ thuật đã tìm thấy tại nước ta cách đây khoảng 30 vạn năm. Cho đến nay chúng ta chưa tìm thấy những tác phẩm Điêu khắc, Kiến trúc, hội họa to lớn như ở Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Anh mà chỉ mới tìm được một số tác phấm nghệ thuật chạm khắc trên chất liệu đá, đất, xương thú. Có lẽ do đặc điểm địa lý, khí hậu, vật liệu xây dựng, đặc điểm đời sống đã không đòi hỏi, không làm nảy sinh những cái to lớn đồ sộ.

Bước đầu các nghệ nhân nguyên thủy đã bộc lộ khả năng quan sát, thể hiện đặc điểm đặc trưng của một số sự vật, hình tượng. Tỷ lệ tương đổi cân đối. Ở một số hình còn thể hiện ý thức bố cục. Ngoài khả năng vẽ hình, người nguyên thủy Việt Nam còn bắt đầu tìm cách sử dụng màu để vẽ trên các bình gốm hoặc nhuộm những mảnh đá, vỏ sò, vỏ ốc, những vật thiêng dành cho người đã mất.

Một số hình khắc người và thú ở hang Đồng Nội, những trang trí trên đồ đá, đồ trang sức và đặc biệt là đồ gốm thời đá mới đã cho thấy sự đặc sắc của tạo dáng và trang trí bằng hoa văn hình học. Từ dáng rìu tứ giác mài lưỡi Bắc Sơn là một trong những chiếc rìu đẹp xuất hiện sớm trên thế giới đến kiểu dáng và hoa văn trang trí các đồ gốm Hạ Long- Hoa Lộc đã cho thấy cảm hứng phong phú của người Việt cổ. “Ít có đồ gốm thời đá mới trang trí hình học phong phú như ở Việt Nam” (Nguyễn Quân). Mạp dù phải đến khi xã hội hình thành, những dấu vết về nghệ thuật tạo hình mới xuất hiện, nhưng những hoạt động sáng tạo này đã đặt những viên gạch đầu tiên để tạo nền móng cho nghệ thuật tạo hình dân tộc sau này tiếp tục phát triển.

No comments

Leave your comment

In reply to Some User