lsmt vn
- Category: lsmt vn
- Hits: 493
Trong một chuyến đi thực tế của lớp Cao Học Mỹ Thuật năm 2016, nhờ quen biết với Phân Viện Văn Hoá Nghệ Thuật Huế mà mình mới được phép chụp những tấm hình này
- Category: lsmt vn
- Hits: 499
Nghi thức Long hổ song đấu, vua Bảo Đại ngồi kiệu, lễ tế Nam Giao ở Huế... là loạt ảnh Việt Nam thời thuộc địa mới được công bố ở Pháp.
- Category: lsmt vn
- Hits: 541
Những người việt nam đầu tiên được chụp ảnh chân dung là ai?
- Category: lsmt vn
- Hits: 506
Nói đến lịch sử Việt Nam là nói đến những chiếc trống đồng thời kỳ Văn Lang, là biểu trưng cho một nền văn hóa thuần khiết của người dân Lạc Việt khi chưa bị vấy bẩn từ các tác nhân xâm lược phương bắc.
- Category: lsmt vn
- Hits: 493
Kiếm lưỡi cong có cán cầm bằng 2 tay
- Category: lsmt vn
- Hits: 530
Trường Kiếm - Straightswords
- Category: lsmt vn
- Hits: 505
Học trò tiểu học hồi hơn 90 năm trước học môn vẽ như thế nào?, nay đương lục lại mớ tranh hình cũ thời tình cờ lục lại bộ scan tranh vẽ của học trò tiểu học ở Long Xuyên gần trăm niên về trước.
- Category: lsmt vn
- Hits: 593
Bài nghiên cứu của GS Gia Ninh Trần (Đọc khoἀng: 22 phύt)
- Category: lsmt vn
- Hits: 509
Nguồn (Sự trở về của cô gái Pháp mang dòng máu vua Hàm Nghi)
- Category: lsmt vn
- Hits: 564
Bài dưới đây xin được đăng nguyên bài của họa sĩ Đức Hòa với tựa đề "Chuyện về hiệu trưởng victor tardieu & sinh viên nguyễn gia trí ". Mời bạn thư giản cuối tuần với bài viết chi tiết thú vị dưới đây về một huyền thoại: Họa sĩ Nguyễn Gia Trí. Một trong tứ trụ trong nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam.
- Category: lsmt vn
- Hits: 528
Nếu đã từng nghiên cứu về mỹ thuật việt nam qua các thời kỳ lịch sử, bạn sẽ vấp phải một mớ từ chuyên môn về kiến trúc cổ.
- Category: lsmt vn
- Hits: 588
sưu tầm. Lịch sử việt nam qua các thời đại
Unpublished- Category: lsmt vn
- Hits: 329
Trong quá trình ôn lại lịch sử mỹ thuật việt nam, mình tìm được nguồn tài liệu này. Đây là bài viết về các thời kỳ lịch sử việt nam theo cách dễ hiểu và rõ ràng nhất (tính xác thực sẽ xác minh sau), nhưng quả thực thì "hay" và "thực" hơn các sách mình đang học rất nhiều.
I- TỪ HỌ HỒNG BÀNG ÐẾN CUỐI NHÀ TRIỆU
HỌ HỒNG BÀNG
Việt Nam tổ chức thành xã hội từ khoảng gần 3000 năm trước Tây Lịch (Thiên Chúa giáng sinh) và họ Hồng Bàng làm vua 18 đời kéo dài 2621 năm (2879-258 TCN). Ðây chỉ là một truyền thuyết và chúng ta có thể tạm chấp nhận được, để giải thích về nguồn gốc dân tộc khi mà chưa có một giải thích khoa học chính xác hơn.
Việt Nam bấy giờ có tên là Văn Lang, kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên (Bắc phần). Lãnh thổ gồm Bắc Việt và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Ngoài triều đình có các hàng quan lại, ở địa phương còn có quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn là Lạc hầu, đều có thái ấp riêng. Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, có những tục vẽ mình, nhuộm răng, ăn trầu, theo chế độ mẫu hệ... tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên như Thần núi, Thần sông, Thần gió…
Ðến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía Bắc Văn Lang sang đánh, Hùng Vương thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 TCN.
AN DƯƠNG VƯƠNG - TRIỆU ÐÀ
Thục Phán tự xưng làm vua năm 257 trước Tây lịch hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (Phúc Yên) và cho xây dựng thành Cổ Loa rất kiên cố. Lúc bấy giờ, bên Tàu Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, sai Ðồ Thư mang quân sang đánh Âu Lạc. Nhưng sau 10 năm đánh nhau, Ðồ Thư bị giết, quân Tần phải rút lui . Ðây là lần đầu tiên Âu Lạc chống lại quân xâm lược từ phương Bắc của Trung Hoa.
Ít lâu sau, Triệu Ðà từ quận Nam Hải (Quảng Ðông bây giờ) sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương mắc mưu thua chạy, rồi tự tử. Từ đó Triệu Ðà sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải và Quế Lâm (Quảng Tây) tạo thành nước Nam Việt lên ngôi vua lấy hiệu là Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Ðông)
NHÀ TIỀN HÁN XÂM LĂNG NAM VIỆT
Bấy giờ ở Trung Hoa là triều đại Tiền Hán, năm 916 Triệu Vũ Vương giao thiệp với nhà Hán. Sau Triệu Vũ Vương là các vua Văn vương, Minh vương & Ai vương đều bất tài nhu nhược. Ðời vua Ai Vương, nhà vua còn nhỏ, Cù Thị là mẹ của Ai Vương vốn gốc người Hán, xúi giục Ai Vương đem đất nước dâng nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia can ngăn không được, phải bắt giết cả hai mẹ con Cù Thị, rồi lập anh của Ai Vương lên làm vua lo chuẩn bị chống lại nhà Hán. Sau đó nhà Hán sai tướng Lỗ Bác Ðức sang đánh, Lữ Gia yếu thế bị bắt giết, mở đầu cho một thời đại Bắc thuộc đen tối của dân tộc.
II- THỜI ÐẠI BẮC THUỘC
BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT (111 TCN - 39 SCN)
Sau khi chiếm Nam Việt, nhà Hán đặt nền đô hộ đầu tiên của phương Bắc lên nước ta. Nam Việt bị đổi thành một bộ của Trung Hoa gọi là Giao Chỉ bộ chia ra làm nhiều quận nhỏ, mỗi quận có quan lại người Tàu cai trị. Trong suốt thời gian Bắc thuộc lần thứ nhất kéo dài 150 năm, kể từ năm 111 TCN cho đến năm 39 SCN, dân tộc ta chịu trăm điều khổ sở vì các thái thú người Tàu đại đa số tham lam, tàn ác, luôn luôn vơ vét của dân cho đầy túi tham, ngoài phần đóng thuế cho triều đình Trung Hoa.
CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA HAI BÀ TRƯNG
Năm 34 SCN, Tô Ðịnh làm Thái thú quận Giao Chỉ là một người tham lam tàn bạo dân chúng vô cùng oán hận. Tô Ðịnh giết Thi Sách là con Lạc Tướng Châu Diên (Vĩnh Yên) khi Thi Sách mưu việc chống Tàu . Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng với em Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Ðịnh báo thù cho chồng rửa hận cho nước, Tô Ðịnh thua chạy về Tàu năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ của nhà Hán đối với Nam Việt lần thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh (năm 40SCN) . Năm 41 danh tướng nhà Hán là Mã Viện mang quân sang đánh, cầm cự cho đến năm 43 thì Hai Bà thất trận chạy đến sông Hát Giang rồi trầm mình. Từ đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần thứ hai .
BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI
Sau khi thắng được Hai Bà Trưng, Mã Viện cho tổ chức việc cai trị chặt chẽ hơn trước, các Lạc hầu Lạc tướng bị tước hết quyền hành, nước ta coi như một phần đất của Trung Hoa . Các Thái Thú thẳng tay đàn áp, thi hành chính sách đồng hóa dân ta: cách ăn mặc, nhà ở, phong tục, học hành, lễ giáo ... đều bắt buộc phải theo Tàu, về sau đổi tên nước ta lại là Giao Châu . Các quan Tàu đều tham lam, tàn ác, dân ta vô cùng khổ sở phải lên rừng săn voi lấy ngà, xuống biển mò ngọc trai dâng nạp cho quan Tàu . Trong suốt 501 năm (43-544) trải qua các triều đại khác nhau của Trung Hoa dân ta phải luôn luôn gánh chịu những áp bức của người Tàu đô hộ. Tuy nhiên trong khoảng thời gian dài đăng đẳng đó, cũng có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, tuy không thành công trong việc đánh đuổi người Tàu nhưng đã nói lên tinh thần ái quốc của dân tộc, ảnh hưởng lớn lao đến các cuộc khởi nghĩa sau này.
CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA LÝ BÔN CHẤM DỨT BẮC THUỘC LẦN HAI - NHÀ TIỀN LÝ (544-602)
Trong thời Nam Bắc triều bên Tàu, đất Giao Châu thuộc nhà Lương. Thứ Sử Tiêu Tư làm nhiều điều tàn ác, lòng người oán giận đồng thời quân Lâm Ấp là nước ở cạnh Giao Châu thường sang cướp phá luôn, dân chúng vô cùng khổ sở. Năm 541, Lý Bôn người huyện Thái Bình (Sơn Tây) nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư và dẹp tan quân Lâm Ấp sang quấy nhiễu .
Thắng trận, năm 544 Lý Bôn tự xưng làm vua hiệu Lý Nam Ðế, đặt tên nước là Vạn Xuân, chấm dứt Bắc thuộc lần thứ hai, đồng thời tạo được một thời gian độc lập lâu dài của dân tộc sau gần 700 năm bị giặc Tàu đô hộ. Năm 545 quân Tàu kéo sang đánh nước ta, Lý Nam Ðế già yếu trao quyền lại cho Triệu Quang Phục chống cự với quân Tàu, cho đến năm 549 thì giặc Tàu thua chạy về nước, Lý Nam Ðế đã mất, Triệu Quang Phục lên ngôi xưng là Triệu Việt Vương. Ðến năm 571 Lý Phật Tử là cháu Lý Nam Ðế cướp ngôi Triệu Việt Vương, tự xưng là Hậu Lý Nam Ðế. Ðể rồi hơn 30 năm sau, năm 602, quân Tàu sang đánh Lý Phật Tử đầu hàng. Một lần nữa nước ta lại bị lệ thuộc vào sự đô hộ khắc nghiệt của nhà Tùy bên Tàu . Thời tự chủ kéo dài trong 58 năm đặt nền móng cho tinh thần chống người Tàu từ phương Bắc của dân tộc ta về sau này .
BẮC THUỘC LẦN THỨ BA (602 - 938)
Năm 602 nhà Tùy cai trị nước ta, nhưng đến năm 618 thì nhà Tùy bị nhà Ðường diệt, Giao Châu lại lệ thuộc vào nhà Ðường và đổi tên thành An Nam Ðô Hộ Phủ. Chính sách cai trị của nhà Ðường khắc nghiệt nhất so với các triều đại khác của Trung Hoa, đã vậy quân Lâm Ấp & quân Nam Chiếu thường sang cướp phá luôn, dân gian khổ sở trăm bề.
Mãi cho đến năm 722, Mai Thúc Loan người tỉnh Hà Ðông nổi lên chống với quân Ðường, chiếm giữ một phần đất ở Hoan Châu (Nghệ An). Nhưng sau đó Mai Thúc Loan yếu thế thua chạy rồi bị bệnh mất. Sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, nhà Ðường lại càng siết chặt việc cai trị hơn trước nữa . Năm 791, Phùng Hưng người tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân Ðường về Tàu, lo việc cai trị sửa sang lại nước được mấy tháng rồi mất. Con là Phùng An lên thay nhưng thế lực đã suy yếu phải hàng nhà Ðường khi xâm chiếm nước ta lần nữa, dân ta lại lệ thuộc Trung Hoa .
THỜI KỲ CHUYỂN TIẾP ÐỘC LẬP VỚI DƯƠNG DIÊN NGHỆ - NGÔ QUYỀN ( 931-938 )
Nhà Nam Hán đặt Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu từ năm 923 đến năm 931 thì Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, Lý Tiến thua chạy về Tàu. Dương Diên Nghệ tự xưng làm Tiết Ðộ Sứ cai trị Giao Châu . Năm 937, Dương Diên Nghệ bị nha tướng là Kiều Công Tiện giết để chiếm đoạt quyền hành. Bấy giờ Ngô Quyền là rể Dương Diên Nghệ từ Thanh Hoá ra bắt Kiều Công Tiện giết đi và phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng năm 938 khi quân Nam Hán âm mưu chiếm lại nước ta do sự cầu cứu của Kiều Công Tiện - trước khi chết. Thắng trận Bạch Ðằng Ngô Quyền chấm dứt hẳn thời đại Bắc thuộc kéo dài 1050 năm, mở đường tự chủ cho dân tộc lâu dài từ năm 938 trở về sau
III- THỜI ÐẠI ÐỘC LẬP
NHÀ NGÔ (938 - 965)
Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939) đóng đô ở Cổ Loa huyện Ðông Anh (Phúc Yên), sửa sang việc cai trị mong xây dựng một nền tự chủ vững bền cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền mất năm 944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu vì triều đình không có được những bậc công thần gánh vác việc nước. Ðến năm 965 đời vua Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào tạo lấy cho mình một thế lực riêng không tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh lẫn nhau, gọi là loạn Thập nhị sứ quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là một sứ quân. Năm 968 Ðinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn sứ quân lập nên nhà Ðinh.
NHÀ ÐINH (968 - 980)
Ðinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là Ðinh Tiên Hoàng, đặt tên nước Ðại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có công chăm sóc, sửa sang lại đất nước sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà Ðinh cố lo tổ chức việc binh, có được 10 đạo quân hùng mạnh so với thời bấy giờ. Về sau Ðinh Tiên Hoàng ham mê tửu sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến đời vua cuối cùng là Ðinh Tuệ mới sáu tuổi thì quân Tống sang đánh, Dương Thái Hậu cùng với các tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để đôn đốc quân sĩ đánh giặc. Nhà Ðinh mất ngôi năm 980 sau 12 năm trị vì.
NHÀ TIỀN LÊ (980 - 1009)
Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Ðại Hành Hoàng Ðế, đánh tan quân Tống và chinh phạt Chiêm Thành khi Chiêm Thành bắt sứ giả của ta. Vua Lê Ðại Hành chăm lo việc cai trị, tổ chức quân đội, mở mang nông nghiệp, đúc tiền, đào cảng, mở đường giao thông...
Năm 1004 vua Lê Ðại Hành mất, các vị vua về sau nhu nhược ham mê tửu sắc, tàn ác, nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm 1009 về tay nhà Lý.
NHÀ LÝ (1010 -1225)
Vua Lê Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác lòng dân cũng như triều đình oán giận, nên khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang giữ chức Ðiện Tiền Chỉ Huy Sứ lên ngôi . Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô ra thành Ðại La tức Hà Nội bây giờ. Việc nội trị từ Lý Thái Tổ về sau vô cùng hoàn bị, các phương tiện hành chánh, chính trị, kinh tế, quân sự, tôn giáo ... được tổ chức chu đáo. Nhất là vào triều đại của vua Lý Nhân Tôn (1072-1117) Khoa thi đầu tiên của nước ta được tổ chức, văn học được chú trọng, quân sự cũng hùng mạnh, Lý Thường Kiệt, Tôn Ðản mang quân sang đánh Tống tận bên Tàu và phá tan giặc Tống sang báo thù (1075 - 1076), chinh phạt Chiêm Thành (1103) làm cho nhà Tống nể sợ, Chiêm Thành phải triều cống.
Khi Tống sang đánh nước ta, để thúc lòng quân sĩ chống giặc, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng sau đây:
Nam Quốc sơn hà Nam Ðế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thử bại hư
Về sau, vua Lý Huệ Tôn nhu nhược giao cả binh quyền cho Trần Thủ Ðộ, nghe lời Trần Thủ Ðộ truyền ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi để đi tu. Trần Thủ Ðộ ép Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình là Trần Cảnh rồi truyền ngôi cho chồng năm 1225, nhà Lý mất nghiệp kể từ đó.
NHÀ TRẦN (1225 -1400)
Trần Cảnh lên làm vua lúc 8 tuổi, hiệu là Trần Thái Tôn, mọi việc trong nước đều do Trần Thủ Ðộ quyết định. Trần Thủ Ðộ định lại việc việc cai trị, tổ chức một triều đình có nếp, ấn định thuế má, mở mang nông nghiệp, việc binh bị cũng được đặc biệt chú trọng để tránh hiểm họa phương Bắc. Văn học đã mở mang rộng rãi, Nho học, Phật giáo, Lão giáo đều được triều đình chú trọng. Nhiều nhà Nho, nhà văn nổi tiếng như Mạc Ðĩnh Chi, Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu ... được nhắc nhở trong thời đại này .
Năm 1257, sau khi vó ngựa đã dẫm nát Trung Hoa, biến Trung hoa thành nô lệ cho nhà Nguyên và làm rung chuyển cả Âu Châu, quân Mông Cổ quay sang bắt đầu đánh nước ta. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đạo quân Mông Cổ bị đánh bại tan tành không còn manh giáp phải chạy về Tàu, đánh dấu cho lần thất bại đầu tiên của nhà Nguyên ở Việt Nam.
Năm 1284, để phục hận cho lần trước bị đánh bại, quân Mông Cổ đem 50 vạn quân do Thoát Hoan, Toa Ðô, cùng Ô Mã Nhi tràn sang xâm chiếm nước ta. Trước thế giặc quá mạnh, vua Trần Nhân Tôn hội họp các Vương Hầu ở Bình Than chia nhau ra chống giặc. Ðồng thời triệu tập các bô lão ở diện Diên Hồng để hỏi nên hòa hay nên chiến - các bô lão đều đồng thanh xin đánh giặc cả.
Giai đoạn đầu thế giặc mạnh như nước vỡ bờ, quân ta phải rút lui về giữ những nơi hiểm yếu . Về sau với những danh tướng tài giỏi như Trần Hưng Ðạo, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão ... và tinh thần dốc lòng đánh giặc của toàn dân, nên Toa Ðô đã bỏ xác với vô số quân Mông Cổ, còn Thoát Hoan và Ô Mã Nhi cùng tàn quân chạy trối chết về Tàu. 50 vạn quân Mông Cổ tan rã nhục nhã trong vòng không đầy một năm (1284-1285). Lần thứ hai nhà Nguyên thảm hại chua cay trước dân tộc Việt khi đã mở rộng đế quốc của họ ra đến tận Âu Châu .
Ðể phục thù, nhà Nguyên đình lại việc đánh Nhật Bản, quay sang đánh nước ta . Thuyền chiến, lương thực, khí giới, quân lính được chuẩn bị chu đáo, nhà Trần biết được điều đó cũng lo phòng bị đối phó với giặc. Năm 1287 Thoát Hoan, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp dẫn 30 vạn quân cùng với 500 chiến thuyền ào ạt tràn sang nước ta lần thứ ba .
Giai đoạn đầu, giặc quá mạnh, vua tôi nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa để tránh mũi dùi của giặc và kêu gọi khắp nơi cầm cự với quân Nguyên. Về sau quân ta bắt được thuyền lương của giặc từ bên Tàu chuyển qua ở Vân Ðồn làm cho quân Mông Cổ run sợ - để rồi một lần nữa sóng nước Bạch Ðằng đã nhận chìm vô số quân Mông Cổ và Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp với 400 chiến thuyền bị quân ta bắt được. Trên đường chạy trốn về nước, Thóat Hoan còn bị Phạm Ngũ Lão phục binh đánh cho một trận tơi bời, chạy trối chết về Tàu .
Ðạo quân Mông Cổ mà vó ngựa đã từng dẫm nát lục địa Trung Hoa, xâm chiếm Nga-la-tư rộng lớn, đánh tan các đội kỵ binh Âu Châu, làm run chuyển một phần lớn vùng này, với ba lần thất bại, đã phải cúi đầu trước sức kháng cự của dân tộc Việt mà từ bỏ mộng xâm lăng nước ta, cho đến khi nhà Nguyên bị diệt bên Tàu .
Về cuối đời nhà Trần, các vua nhu nhược, triều chính không người coi sóc, binh bị sao lãng để ba lần quân Chiêm Thành đánh phá đến tận Thăng Long. Vào năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại kéo quân sang đánh, bị Trần Khắc Chân bắn chết từ đó giặc Chiêm mới yên. Tuy nhiên nhà Trần đã suy sụp lắm rồi nên Lê Quý Ly lộng quyền âm mưu diệt trừ các thế lực của nhà Trần dần dần, cho đến năm 1400 thì soán đoạt ngôi của Thiếu Ðế. Nhà Trần mất nghiệp sau 175 năm trị vì.
NHÀ HỒ (1400-1407)
Lên ngôi rồi, Lê Quý Ly đổi trở lại là Hồ Quý Ly, đặt tên nước Ðại Ngu, đóng đô ở Tây Ðô (Thanh Hóa) Nhìn chung, nhà Hồ tuy ở ngôi có 7 năm nhưng đã làm được rất nhiều như: giảm thuế đinh, thuế điền, đặt ra thuế thuyền buôn, những quả phụ cô nhi và những người không có ruộng đất được miễn thuế. Hồ Quý Ly còn có sáng kiến in giấy bạc để thay cho tiền đồng, nhằm tiện việc buôn bán, làm giàu cho ngân khố. Việc học hành thi cử cũng thay đổi rất nhiều: đặt ra thêm môn thi toán pháp, dùng chữ Nôm để giảng dạy khắp trong nước và soạn thảo công văn, sớ biểu . Phật Giáo cuối đời nhà Trần suy yếu đi nhiều vì thiếu những bậc chân tu sâu sắc . Ngoài ra nhà Hồ lại đặt ty y-tế để lo việc thuốc thang cho dân, đồng thời nhà Hồ cũng chú ý rất nhiều đến việc tổ chức binh bị để tránh hiểm họa phương Bắc. Năm 1042 nhà Hồ mang quân đánh Chiêm Thành, di dân vào khai phá Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay, mở rộng bờ cõi về phương Nam.
Tuy nhiên, về sau khi quân Minh sang đánh với chiêu bài khôi phục cho nhà Trần, nhiều cựu thần còn tưởng nhớ tới thời vàng son của nhà Trần nên theo giặc rất đông, đồng thời quan niệm về chiến thuật của nhà Hồ sai lầm nên năm 1407, Hồ Quý Ly và con cháu thua trận bị bắt giải về Tàu, giữa đường tự tử chết, nhà Hồ mất nghiệp sau 7 năm.
NHÀ HẬU TRẦN (1409 - 1413)
Quân Minh sau khi đánh bại Hồ Quý Ly, âm mưu chiếm luôn nước ta . Trước dã tâm đó của quân Minh, con cháu của nhà Trần và nhiều cựu thần, anh hùng hào kiệt không muốn làm nô lệ, bất hợp tác với chúng. Do đó, quân Minh luôn luôn gặp sự chống đối của con cháu nhà Trần được sự ủng hộ của toàn dân và nhiều người tài giỏi .
Năm 1407, Trần Quỹ con thứ của vua Trần Nghệ Tôn xưng là Giản Ðịnh Ðế chiêu mộ quân chống giặc Minh. Ðầu năm 1409 thì Giản Ðịnh Ðế vào Thanh Hóa để phụ với Trần Quý Khoách là cháu Trần Nghệ Tôn cùng lo việc khôi phục. Ðược nhiều người tài giỏi giúp sức nhà Hậu Trần đánh nhau với quân Minh mãi cho đến năm 1413 thì tan vỡ, từ đó nước ta mới lệ thuộc hẳn nhà Minh bên Tàu.
NƯỚC TA THUỘC NHÀ MINH (1414 - 1427)
Ðến năm 1414, nhà Minh chính thức cai trị nước ta, một chính sách rất chặt chẽ và khắc nghiệt về mọi phương diện. Về hành chánh phân chia nước ta ra làm nhiều cấp để cai trị, nhiều thứ thuế mới được đặt ra, bắt dân lên rừng săn ngà voi, xuống biển mò ngọc trai nộp cho chúng. Ðồng hóa dân ta với Tàu bằng mọi cách, chỉ cho phép lưu hành Tứ Thư Ngũ Kinh của Trung Hoa mà thôi, trong khi sách vở quý giá của ta từ đời Trần trở về trước thì chúng tóm thâu cho hết về Tàu . Chúng bắt dân ta phải thờ cúng Thần thánh của Trung hoa theo các phong tục Trung Hoa .
MƯỜI NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MINH (1418 - 1427)
LÊ LỢI
Lê Lợi là một phú nông ở làng Lam Sơn (Thanh Hóa), trước sự tàn ác dã man của quân Minh, năm 1418 Lê Lợi được nhiều người tài giúp sức đã phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Minh. Trong giai đoạn đầu Lê Lợi phải vất vả rất nhiều, có lần phải xin tạm hòa với giặc, phải để cho gia đình bị giặc bắt, cũng như để cho tùy tướng thân cận là Lê Lai liều mình cứu khỏi vòng vây .
Về sau, nhờ Nguyễn Trãi bày mưu ta thắng giặc nhiều trận, vây tướng Minh là Vương Thông ở Ðông Ðô (Hà Nội), chém Liễu Thăng ở Chi Lăng khi Liễu Thăng mang quân giải cứu Vương Thông.
Cuối cùng năm 1427, Vương Thông phải đầu hàng để kết thúc 10 năm gian khổ giành độc lập của Lê Lợi cùng toàn dân.
NHÀ HẬU LÊ (1428-1527)
Lê Lợi lên ngôi năm 1428 lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ, đặt tên nước là Ðại Việt đóng đô ở Thăng Long. Chia đất nước ra làm 5 đạo, đặt quan cai trị. Tại triều có quan Tả Hửu tướng quốc đứng đầu các quan, có Thượng Thư đứng đầu các bộ Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Nông nghiệp được khuyến khích, đắp đê để tránh lụt, mở thêm đồn điền, khai khẩn đất hoang, qui định thuế má rõ ràng, và định lại phép cân đo . Bộ Luật Hồng Ðức ban bố vào triều vua Lê Thánh Tôn rất hoàn bị được xem như khuôn mẫu cho các luật lệ về sau này . Văn học cũng được chú trọng đặc biệt, Nho học cực thịnh. Triều đình đặt ra lệ xướng danh, khắc tên vào bia đá và cho về vinh qui bái tổ những người thi đỗ tiến sĩ để khuyến khích việc học. Rất nhiều văn tài đã xuất hiện cũng như những tác phẩm văn chương giá trị được viết trong triều đại này . Tuy nhiên, Phật giáo và Lão giáo lúc bấy giờ đang trên đà suy tàn, nhường bước cho Nho giáo đang phát triển vượt bậc.
Việc binh bị cũng được chú ý rất kỹ, các vua nhà hậu Lê nhiều lần mang quân sang chinh phạt Chiêm Thành. Trong các năm 1446, 1470 quân ta chinh phạt Chiêm Thành đánh phá đến tận kinh đô Chiêm là thành Ðồ Bàn, bắt được vua Chiêm và Cung phi đem về Thăng Long. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn chinh phạt Chiêm rồi cho quân ở lại giữ, sau đó đưa quân vào khai khẩn mở đồn điền lập ra đất Quảng bây giờ. Từ đó, Chiêm Thành bắt đầu suy vong mở đường tiến cho các Chúa Nguyễn vào miền Nam sau này .
Ngoài ra, năm 1479 nhà Hậu Lê còn đánh dẹp quân Ai-lao và quân Bồn Man là xứ nằm ở phía tây Nghệ An khi hai xứ này liên kết nổi lên chống lại Ðại Việt. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1504 thì nhà Hậu Lê suy dần với Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tôn, Lê Cung Hoàng... đều là những vị vua bất tài, nhu nhược, xa xỉ, tàn bạo ... Giặc giã nổi lên khắp nơi đánh phá, triều đình không dẹp được. Triều chính suy yếu, các quân chia phe cánh đánh lẫn nhau cho đến năm 1527 thì bị Mạc Ðặng Dung cướp ngôi, nhà Hậu Lê mất sau 100 năm trị vì.
NHÀ MẠC (1527-1592)
Mạc Ðặng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lên làm vua hiệu là Minh Ðức, vẫn giữ nguyên nề nếp cũ của nhà Lê chứ không sửa đổi gì cả. Tuy nhiên họ Mạc vẫn không thu phục được lòng dân còn tưởng nhớ đến nhà Lê, nên rất nhiều người nổi lên chống phá.
Trong đó có Nguyễn Kim là con Nguyễn Hoằng Dụ, một cựu thần nhà Lê năm 1532, lập con vua Lê Chiêu Tôn lên làm vua tức Lê Trang Tôn rồi bắt đầu công cuộc trùng hưng nhà Hậu Lê . Ngoài ra họ Mạc còn gánh chịu hiểm họa xâm lăng của phương Bắc. Năm 1540 Mạc Ðăng Dung phải đầu hàng, dâng đất cho nhà Minh để được bãi binh & phong chức Ðô Thống Sứ.
Sau cùng, Trịnh Tùng giúp nhà Lê trùng hưng bắt giết được Mạc Mậu Hợp năm 1592, nhà Mạc coi như mất ngôi. Con cháu chạy lên Cao bằng nương nhờ thế lực nhà Minh một thời gian nữa rồi mất hẳn vào năm 1667.
NHÀ LÊ TRUNG HƯNG (1532-1778)
Có thể tính nhà Lê Trung Hưng bắt đầu vào năm 1532, khi Lê Trang Tôn lên ngôi. Tuy nhiên bấy giờ nhà Lê đã suy yếu lắm rồi, chỉ còn hư vị nhìn Trịnh Tùng xưng Chúa đất Bắc năm 1570, Nguyễn Hoàng làm Chúa miền Nam năm 1572 và nhà Mạc ở đất Cao Bằng mang quân đánh lẫn nhau gần nửa thế kỉ để rồi mất hẳn nghiệp vào năm 1778 ở đời vua Lê Chiêu Thống, khi 20 vạn quân Thanh bị đánh tan do sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống.
IV - THỜI NAM BẮC PHÂN TRANH (1572-1802)
TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH:
Ngay sau khi Nguyễn Kim chết, con Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng còn nhỏ, binh quyền về tay rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm thì mầm móng chia rẻ Trịnh-Nguyễn đã phát sinh. Về sau vì sợ Nguyễn Uông tranh quyền, Trịnh Kiểm dùng mưu giết Nguyễn Uông đi, Nguyễn Hoàng lo sợ nói với chị là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào đất Thuận Hóa phía Nam năm 1558. Tuy nhiên sau đó Nguyễn Hòang vẫn bị Trịnh Kiểm và Trịnh Hùng gọi ra Bắc để kiềm chế lấy cớ là dẹp loạn, mãi cho đến năm 1572 Nguyễn Hoàng nhân một chuyến đi dẹp loạn trốn được vào Nam, từ đó có cuộc phân tranh Trịnh-Nguyễn chính thức.
Ở Bắc, các Chúa Trịnh kể từ Trịnh Tùng lo sửa sang quan chế, giảm nhẹ hình phạt, cho khai mỏ, mở cảng Phố Hiến, mở mang thương mại. Mở trường võ bị, đặt lệ thi võ, sai người viết sử lại, khắc bảng gỗ in sách vở để không mua của Trung Hoa nữa, đánh dẹp các cuộc nổi loạn... thực quyền nằm ở Phủ Chúa, các vua Lê nối tiếp nhau chỉ có hư vị.
Ở Nam, các Chúa Nguyễn kể từ Nguyễn Hoàng tổ chức việc hành chánh, đặt thuế xuất nhập cảng, mở cảng Hội An, đặt lệ thi để chọn nhân tài, mở trường đúc súng đại bác, tập bắn... Nhưng công nghiệp quan trọng nhất của các chúa Nguyễn là mở mang bờ cõi về phương Nam. Lúc vào trấn Thuận Hoá, lãnh thổ nước ta chỉ có đến Bình Ðịnh ngày nay, sau các Chúa Nguyễn lần lượt chiếm nốt đất của Chiêm Thành và thu nhận đất Thủy Chân Lạp từ tay người Chân Lạp để lập ra miền Tây Nam phần ngày nay .
Bắt đầu từ năm 1627, hai bên mang quân đánh lẫn nhau, chiến trường thường là vùng Quảng Bình, kéo dài 45 năm với 7 trận đánh không phân thắng bại cuối cùng năm 1672 mới giảng hòa chia đôi đất nước, lấy sông Gianh làm ranh giới giữa đôi bên. Hòa bình kéo dài được 100 năm, cho đến lúc anh em Tây Sơn dấy nghiệp ở đất Qui Nhơn thì chấm dứt.
Cũng trong thời gian phân tranh này, người Âu Châu bắt đầu tiếp xúc với Việt Nam ở cả đàng trong lẫn đàng ngoài trong việc buôn bán và truyền đạo Thiên Chúa. Cuối cùng hai bên suy yếu đi vì các Chúa chơi bời xa xỉ không lo việc nước, triều thần lộng quyền, lòng dân không còn phục nữa giặc cướp nổi lên đánh phá khắp nơi, để đến năm 1777 anh em Tây Sơn dứt nghiệp Chúa ở miền Nam chỉ còn cháu Chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh chạy thoát và dứt Chúa Trịnh năm 1786 ở miền Bắc.
Ðồng thời vua Lê Chiêu Thống nhu nhược không tổ chức được triều chính khi anh em Tây Sơn ra Bắc diệt họ Trịnh xong rồi rút quân về miền Nam. Năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh, họ Lê mất hẳn ngôi vào lúc đó.
Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa ổn định được, anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, quân Thanh xâm lăng nước ta, Nguyễn Phúc Ánh đánh phá miền Nam... mãi cho đến năm 1802 Gia Long mới thống nhất được đất nước.
NHÀ TÂY SƠN (1778-1802)
Anh em Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ người làng Tây Sơn tỉnh Quy Nhơn, năm 1771 dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ được rất nhiều người bất mãn với chế độ nổi lên chống lại phía Nguyễn khi quyền thần Trương phúc Loan làm nhiều điều tàn ác, tham lam dân chúng khổ sở.
Ðầu tiên anh em Tây Sơn dùng mưu lấy Quy Nhơn, rồi chẳng bao lâu đánh chiếm luôn Phú Xuân (Huế) đuổi Chúa Nguyễn cùng cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy vào Gia Ðịnh. Nhưng sau đó họ Trịnh từ Bắc đánh vào, Chúa Nguyễn từ Nam đánh ra, Tây Sơn ở giữa phải giả hàng Chúa Trịnh để quay vào đánh Chúa Nguyễn. Từ đó Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ dùng mưu đánh lấy đất Gia Ðịnh, Chúa Nguyễn bị bắt giết, cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy thoát năm 1777, chấm dứt nghiệp Chúa ở miền Nam.
Năm sau, năm 1778 Nguyễn Nhạc tự xưng đế, đặt niên hiệu là Thái Ðức, lấy thành Ðồ Bàn làm kinh đô, phong tặng cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Nhân khi miền Bắc có loạn năm 1782, vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đánh chiếm đất Thuận Hóa, sau đó Nguyễn Huệ ra Bắc truyền hịch phù Lê diệt Trịnh, bắt giết được Trịnh Khải năm 1786, họ Trịnh mất hẳn từ đó.
Anh em Tây Sơn rút quân về Nam, Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tôn phong làm Nguyên Soái và gả con gái là Công chúa Lê Ngọc Hân. Sau đó vua Lê Hiển Tôn mất, Lê Chiêu Thống kế vị bất tài nhu nhược các tướng chuyên quyền, nên năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ 2 bắt giết các tướng có ý phản, vua Lê Chiêu Thống chạy trốn tìm người trung nghĩa lo khôi phục, nhưng thế lực đã suy tàn cơ nghiệp nhà Hậu Lê từ năm này coi như chấm dứt. Về sau Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh nhưng cũng không thành công.
Cũng trong thời gian đó thì anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, nên năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị mang 20 vạn quân xâm chiếm Bắc Hà thì Nguyễn Huệ ở Phú Xuân lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc. Với những trận đánh ở Hà Hồi, Ngọc Hồi, Ðống Ða .... Hứa Thế Thành, Tôn Sĩ , Sầm Nghi Ðống... bỏ xác tại trận và 20 vạn quân Thanh bị đánh tan trong vòng 5 ngày . Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về Tàu bỏ cả ấn tín Lê Chiêu Thống vội vã chạy theo, sống lưu vong với đám tùy tùng rồi chết ở bên đó.
Phá tan quân Thanh rồi, vua Quang Trung cải cách được nhiều việc, chuẩn bị binh lính để đánh Trung hoa, nhưng chỉ được mấy năm rồi mất sớm, truyền ngôi lại cho con là Quang Toản. Từ đó thế lực Tây Sơn suy tàn, trong khi ở miền Nam , Nguyễn Phúc Ánh được nhiều người tài giỏi giúp sức mỗi ngày mỗi mạnh lên, để đến năm 1802 thì dứt nhà Tây Sơn thống nhất đất nước sau gần 200 năm phân chia nội chiến.
V-NHÀ NGUYỄN (1802-1945)
Lên ngôi năm 1802, Nguyễn phúc Ánh lấy hiệu là Gia Long, đóng đô ở Huế, đặt tên nước Việt Nam, tổ chức triều chính, mở trường học ở khắp nơi, tổ chức các khoa thi để chọn người làm quan, Nho học được chú trọng. Nhà Nguyễn cũng chăm lo tổ chức quân đội, đánh dẹp các cuộc nội loạn nhất là dưới thời Minh Mạng, Tự Ðức. Về luật pháp cũng được sửa đổi ít nhiều qua bộ luật Gia Long, triều đình còn khuyến khích mở mang nông nghiệp, đào kinh dẫn nước vào ruộng và tiện việc giao thông ở miềnTây Nam phần.
Nguyễn Trường Tộ là người tinh thông Nho học và được du học ở các quốc gia Tây phương. Khi về nước đã dâng lên vua Tự Ðức những bản điều trần xin cải cách canh tân xứ sở. Nhưng triều đình Huế bấy giờ chỉ là những nhà Nho thấm nhuần tư tưởng Ðông phương, bảo thủ, nghi ngờ không dám bỏ cũ theo mới. Nên trước kia trong các năm 1821,1822,1835 nhiều phái đoàn Anh, Mỹ, Pháp đến xin thông thương, buôn bán đều bị từ chối; cho nên những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cũng chịu chung số phận, các quan lại già nua tham quyền cố vị lo sợ những người mới tranh hết quyền hành, đồng thời tình hình cũng rối ren do đó dần dần những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ bị bỏ dở không thực hiện gì cả.
VI - CUỘC XÂM LĂNG CỦA NGƯỜI PHÁP VÀO VIỆT NAM (1858-1884)
Cuối thế kỷ 18, người Pháp bắt đầu dòm ngó đến Việt Nam trong việc mở rộng thuộc địa . Năm 1858 Pháp bắt đầu xâm lăng Việt Nam, thì 4 năm sau, năm 1862 hòa ước Nhâm Tuất ký giữa triều đình Huế (do Phan Thanh Giản đại diện) và Pháp nhường dứt cho Pháp ba tỉnh miền Ðông Nam phần Gia-định, Ðịnh-tường, Biên-hòa mở đầu cho những hòa ước sau này dẫn đến việc Việt Nam rơi vào tay Pháp. Năm 1863, Phan Thanh Giản cầm đầu phái bộ sang Pháp điều đình chuộc đất, nhưng bất thành. Sau khi về nước, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh-lược-sứ ba tỉnh miền Tây Nam phần Vĩnh long, An giang, và Hà tiên để lo chống việc Pháp.
Pháp đem quân đánh, Phan Thanh Giản uống thuốc độc chết, ba tỉnh thất thủ, sáu tỉnh Nam phần rơi vào tay Pháp. Chiếm xong sáu tỉnh miền Nam Pháp lăm le đất Bắc, Nguyễn Tri Phương được cử giữ thành Hà Nội, Pháp đem quân đánh Hà nội lần thứ nhất, Nguyễn Tri Phương cùng con là phò mã Nguyễn Lâm chết theo thành khi thành mất.
Trước thất bại này, triều đình phải ký với Pháp hòa ước năm Giáp Tuất (1874), nhường cho Pháp sáu tỉnh Nam Phần, đổi lại Pháp trả Hà Nội cho Việt Nam. Tuy nhiên Pháp vẫn dòm ngó đất Bắc, Hoàng Diệu được cử là Tổng Ðốc Hà nội để lo đối phó với giặc Pháp. Năm 1882 Pháp mang quân đánh Hà-nội lần thứ hai, vì có người phản bội đốt kho thuốc súng nên thành Hà-nội thất thủ, Hoàng Diệu thắt cổ chết, đất Bắc lọt vào tay Pháp lần nữa.
Giữa lúc tình thế rối ren, năm 1883 vua Tự Ðức băng hà, triều đình Huế bị xáo trộn vì Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết trong vòng mấy tháng phế lập liên tiếp các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi Sau khi lên ngôi, vua Hàm Nghi cùng với Tôn Thất Thuyết và các văn thân tổ chức đánh úp Pháp ở đồn Mang Cá - gần kinh thành, nhưng không thắng được. Kinh đô Huế thất thủ, Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Bình truyền hịch Cần Vương kêu gọi các sĩ phu cùng tòan dân đứng ra cứu nước.
Triều đình Huế còn lại phải ký với chính phủ Pháp hoà ước Patenotre (1884) chấp nhập sự đô hộ của Pháp ở Bắc Kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ là đất thuộc địa. Nhà Nguyễn mất thực quyền bắt đầu vào năm này và Việt Nam rơi vào vòng đô hộ của thực dân Pháp kể từ đó.
(Theo vietsciences)
* Vĩnh Yên nay thuộc Vĩnh Phúc
http://asiasoft.com.vn/diendan/showthread.php?81-Lịch-sử-Việt-Nam-qua-các-thời-đại
Các vị vua Triều Nguyễn
Unpublished- Category: lsmt vn
- Hits: 314
Vua Gia Long (1762 – 1820)
Vua Gia Long là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
Sau nhiều thất bại lớn và phải cầu viện sự giúp đỡ của Xiêm La và Pháp, ông giữ vững được Nam Hà và đến năm 1802 thì đánh bại quân Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, thống nhất Việt Nam sau nhiều thế kỷ nội chiến.
Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh (1791 – 1841)
Vua Minh Mạng, tức Nguyễn Thánh Tổ, là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn,
Được xem là một ông vua năng động và quyết đoán, Minh Mạng đã đề xuất hàng loạt cải cách từ nội trị đến ngoại giao, trong đó có việc ngăn chặn quyết liệt ảnh hưởng phương Tây đến Việt Nam.
Vua Thiệu Trị
là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847.
Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền và Dung.
Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa.
Ông sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão, tức 16 tháng 6 năm 1807, tại Huế.
13 ngày sau khi sinh hạ Miên Tông, thân mẫu của ông mất.
Vua Tự Đức (1829 – 1883),
Vua Tự Đức (là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Nguyễn. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm hay còn có tên Nguyễn Phúc Thì, là con trai thứ hai của vị hoàng đế thứ 3 triều Nguyễn, Thiệu Trị.
Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883.
Trong thời gian trị vì của ông, nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp.
Vua Hiệp Hòa (1847 – 1883)
Vua Hiệp Hòa là vị vua thứ sáu của vương triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tên thật của ông là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Nguyễn Phúc Thăng, là con thứ 29 và là con út của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận.
Ông lên ngôi tháng 7/1883, lúc 37 tuổi. nhưng bị phế truất và bị ép uống thuốc độc qua đời vào tháng 10 cùng năm.
Vua Kiến Phúc tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, thường được gọi là Dưỡng Thiện, là vị vua thứ bảy của vương triều nhà Nguyễn.
Ông là con thứ ba của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi, và giao cho bà Học Phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo.
Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, vào ngày 2/12/1883, Ưng Đăng (15 tuổi) được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc.
Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất vào ngày 10 tháng 6 năm Giáp Thân (31-7-1884) lúc mới 16 tuổi.
Vua Hàm Nghi (1871 – 1943)
Vua Hàm Nghi là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, là em trai của vua Kiến Phúc.
Năm 1884, Hàm Nghi được đưa lên ngôi ở tuổi 13.
Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa ông ra ngoài và phát hịch Cần Vương chống thực dân Pháp.
Phong trào Cần Vương kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị Pháp bắt.
Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie).
Ngày nay, Việt Nam xem ông, cùng với các vua chống Pháp: Thành Thái, Duy Tân là ba vị vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc
Vua Đồng Khánh (1864 – 1889)
Vua Đồng Khánh miếu hiệu Nguyễn Cảnh Tông, là vị Hoàng đế thứ chín của nhà Nguyễn, tại vị từ năm 1885 đến 1889.
Tên húy của nhà vua các tài liệu ghi khác nhau, nơi thì ghi là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, Nguyễn Phúc Ưng Thị, Nguyễn Phúc Ưng Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mông, ngoài ra còn có tên Nguyễn Phúc Đường.
Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, được vua Tự Đức nhận làm con nuôi năm 1865, và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo.
Sau binh biến năm 1885, vua Hàm Nghi bỏ ngai vàng ra Tân Sở, triều đình Huế thương lượng với Pháp đưa Ưng Đường lên ngôi, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
Ở ngôi được 3 năm, vua Đồng Khánh bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tí (28-1-1889), lúc được 25 tuổi.
Sau khi mất, bài vị vua Đồng Khánh được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng đế.
Vua Thành Thái (1879 – 1954)
Vua Thành Thái là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907.
Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Nguyễn Phúc Chiêu.
Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị Điểu).
Trước các ý tưởng cấp tiến của vua Thành Thái, người Pháp lo ngại tìm cách ngăn trở. Để che mắt, Thành Thái giả hành động như một người mất trí.
Khi các bản vẽ vũ khí của ông bị phát hiện, Thành Thái giả điên, cào cấu các bà cung phi và xé nát các bản vẽ.
Lợi dụng cơ hội này, người Pháp vu cho ông bị điên, ép ông thoái vị, nhường ngôi cho con vì lý do sức khỏe.
Ngày 3 tháng 9 năm 1907, triều thần theo lệnh của Pháp vào điện Càn Thành dâng vua dự thảo chiếu thoái vị, có chữ ký của các đại thần (trừ Ngô Đình Khả), với lý do sức khoẻ không bảo đảm, xin tự nguyện thoái vị.
Xem xong bản dự thảo, Thành Thái chỉ cười, ghi ngay hai chữ "phê chuẩn" rồi quay lưng đi vào.
Do chống Pháp nên ông cùng với các vua Hàm Nghi và Duy Tân bị đi đày tại ngoại quốc.
Vua Duy Tân (1900 – 1945)
Vua Duy Tân là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn (ở ngôi từ 1907 tới 1916), sau vua Thành Thái.
Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu.
Tuy nhiên ông bất hợp tác với Pháp và bí mật liên lạc với các lãnh tụ khởi nghĩa Việt Nam.
Vì lý do này, ông bị người Pháp đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.
Vua Khải Định (1885 – 1925)
Vua Khải Định hay Nguyễn Hoằng Tông là vị Hoàng đế thứ 12 nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925.
Ông có tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục.
Vua Bảo Đại (22/10/1913 – 31/7/1997)
Vua Bảo Đại là vị Hoàng đế thứ 13 và cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam.
Tên húy của ông là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, còn có tên là Nguyễn Phúc Thiển , tục danh "mệ Vững" là con của vua Khải Định và Từ Cung Hoàng thái hậu.
Đúng ra "Bảo Đại" chỉ là niên hiệu nhà vua, nhưng tục lệ vua nhà Nguyễn chỉ giữ một niên hiệu, nên nay thường dùng Bảo Đại như là tên nhà vua.
Con số 13 bí ẩn và vua Bảo Đại
1. Vua Bảo Đại tên húy là Nguyễn Vĩnh Thụy sinh 22/10/1913, là hoàng tử duy nhất của Vua Khải Định và hoàng hậu Đức Từ Cung
2. Vua Bảo Đại lên ngôi vua năm 13 tuổi, ngày 8/1/1926
3. Vua Bảo Đại trở thành vị vua triều Nguyễn thứ 13: (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại)
4. Vua Bảo Đại ngồi ngai vàng 13 năm:
Ông được trao ngôi khi du học ở Pháp trở về nước thọ tang cha tháng 11/1925.
Ngày 8/1/1926 ông được triều đình tôn ngôi vua, hiệu Bảo Đại. Sau đó, vua trở quay trở lại Pháp học tiếp. Năm 1932, học xong ông về và chính thức ngồi ngai vàng trị nước.
Tới năm 1945 ông thoái vị để ủng hộ Cách mạng tháng Tám,
Tính từ năm 1932 trở về nước lên ngôi chính thức là 13 năm ngồi ngai vàng trị vị. Ông trải qua 2 bước ngoặt lịch sử cách mạng năm 1945, và phản bội nghiệt ngã của Ngô Đình Diệm năm 1954, nhưng không bị giết chết.
5. Vua Bảo Đại khá đào hoa và có nhiều bà vợ: Bắc, Trung, Nam đều có bà, Trung Hoa 1 bà, Lào có Công chúa Lào, Pháp có 3 bà Vicky, Clément và bà Monique. Trong đó có 6 bà sinh con và có tổng số 13 người con:
. 5 con với hoàng hậu Nam Phương,
. 3 con với thứ phi Bùi Mộng Điệp,
. 2 con với thứ phi Lê Thị Phi Ánh,
. 1 con với vợ Trung Hoa Jenny Woong,
. 1 con với vợ Pháp Vicky,
. 1 con với công chúa Lào.
8 người vợ:
1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú, không con.
4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp). Không hôn thú, 1 con gái.
7. Clément. Không hôn thú.
8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.
13 người con:
* Với Nam Phương Hoàng Hậu:
1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (1936-2007)
2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1937).
3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (1938)
4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (1942)
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng (1943)
* Với Thứ phi Mộng Ðiệp:
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946)
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955)
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987)
* Với Hoàng Tiểu Lan:
1. Nguyễn Phúc Phương Anh
* Với Lê Thị Phi Ánh:
1. Nguyễn Phúc Phương Minh (1950-2012)
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951)
* Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ
6. Ông được an táng đúng 13 h ngày 6/8/1997, sau khi chờ tạnh mưa và múc hết nước dưới huyệt mộ để chôn cất.
St : Thổ địa Sài Gòn
http://soi.today/?p=179893
no
Unpublished- Category: lsmt vn
- Hits: 303
Thứ Sáu, 19 Tháng Sáu, 2015 14:35
PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ CHÚ GIẢI VỀ CÁC LOẠI TẦU THUYỀN CỦA AN NAM *
Có hai loại tầu thuyền: tầu thuyền đi sông và tầu thuyền đi biển. Tầu thuyền làm bằng một khúc cây nguyên khối, hoặc bằng những tấm ván dài lấp theo chiều dài tầu thuyền và kết dính với nhau bằng những con chốt cũng bằng gỗ.
Gỗ dùng vào việc đóng tầu thuyền là thứ gỗ tốt chịu được nước và chịu được khí hậu thay đổi. Những thuyền nhỏ đóng bằng một thân cây, thường là gỗ sao. Những tầu thuyền khác thì lườn bằng gỗ sến hay gỗ sao (sao xanh) hoặc sao đẻn hay sao cá đuối. Để làm phần vỏ tầu người ta thường dùng gỗ bìn lin hay gỗ dầu (dầu long, dầu mít, dầu chon tôm, hoặc dầu con rá dên). Phần be tầu thì thường làm bằng hai tấm ván gỗ. Kèo cột chống đỡ cũng thường bằng gỗ sao hay gỗ bìn lin. Sàn cầu tầu bằng gỗ tạp hoặc bằng phên tre đan ghế ngồi bằng gỗ sao hay sến. Cột buồm bằng sến hay bằng sao thì tốt nhất.
TÊN CÁC LOẠI
TẦU THUYỀN KHÁC NHAU
TẦU THUYỀN ĐI BIỂN
Tầu thuyền đi biển đều làm bằng các thứ gỗ như kể trên, nhưng thường thì các tầu thuyền đi biển ở Bình Định hay Bắc Kỳ thì làm bằng gỗ kiền kiền, gỗ chò hay gỗ gò mỡ (?).
1. Ghe bầu là loại to hơn cả, dùng để đi xa. Mũi và đuôi nhọn, nhưng bụng thì phình rất rộng. Mép tầu uốn vào trong làm cho tầu như thu hẹp lại. Làm thế có mục đích tránh bị đánh thuế cao, vì việc đánh thuế tùy theo chiều ngang tầu đo ở nơi này. Cơ quan tính thuế không bị lừa, song việc đóng ghe bầu đã quen tạo tác như vậy. Ghe bầu được sử dụng từ Sài Gòn ra Huế.
2. Ghe cửa (ghe đi ở cửa biển) có hình dáng giống ghe bầu nhưng nhỏ hơn, dùng để chở gỗ, chở mắm, nước mắm, muối...
3. Nốc hay Giả là thứ ghe chuyên chở từ Huế tới ranh giới Trung Hoa. Từ lườn tới mép uốn cao của ghe đáng lẽ phải ghép bằng những tấm ván vắn gắn kết với nhau bởi những chốt gỗ, thì người ta lại ghép chúng bằng sợi dây tre luồn qua những lỗ nhỏ. Để trám những ghe này, người ta chỉ dùng vỏ tràm chứ không trát chai; cũng không bị thu hẹp ở vòng bụng như ghe bầu và được sử dụng như ghe bầu.
4. Mành (ở Bắc Kỳ) giống như Nốc, chỉ có khác là không dùng dây tre mà dùng chốt gỗ, việc trám kín các khe hở cũng làm như nhau.
5. Thuyền đinh được dùng ở Bắc Kỳ, nhỏ hơn hai loại trên. Lườn thuyển thẳng không như các loại ghe khác, phía mũi và đuôi cong lên, song cũng là một tấm ván. Từ mũi tới khúc ngang đỡ bánh lái thuyền cũng thẳng một mức. Có thể nói thuyền đinh ở Bắc Kỳ không có lườn. Đó là một thứ thuyền bằng phẳng.
6. Thuyền thoi có mũi và đuôi rất nhọn giống như hình con thoi ở các máy dệt; đó là loại đặc biệt ở Bắc Kỳ.
7. Ghe nang có lườn và vỏ bằng tre đan, cũng giống như đan rổ, đặc biệt ở Bắc Kỳ. – Để tránh thấm nước, người ta trát bằng phân trâu, hoặc bằng các chất nhựa bôi kín.
8. Thuyền cóc (giống con cóc) có phía mũi rộng và cao, dùng để chuyên chở những sản vật nhẹ như nón, chiếu, trà, v.v... Đó là loại thuyền riêng ở Bắc Kỳ.
THUYỀN ĐI SÔNG
I. Thuyền buôn
1. Ghe lồng là loại thuyền có làm một căn nhà lồng trên boong giành riêng cho thuyền trưởng và chứa những hàng hóa dễ hư hỏng (rộng từ 4 đến 10 sải chèo).
Ghe lồng chui cũng làm như ghe lồng trên, nhưng nhỏ hơn, chỉ rộng độ 3 hay 4 sải chèo.
2. Ghe be là loại thuyền nhỏ hơn, thường cả thân thuyền là một cây gỗ, nhưng muốn chở được nhiều hàng hóa hơn, người ta be cho cao bên sườn bằng hai tấm ván dài làm cho đáy thuyền thêm rộng lớn.
3. Ghe bốc chài là thuyền để chuyên chở. Đó là loại ghe luôn làm bằng một thân cây lớn có mái che khum khum khá cao. Ghe này dùng để chuyên chở hàng hóa.
4. Ghe gian là loại thuyền Cao Miên nguyên trước là kiểu Trung Hoa. Hai bên ghe có ghép những bó tre hay bương để giữ độ nối của ghe. Từ mũi tới cuối ghe, người ta làm kho chứa bằng tre lợp lá kín đáo để chuyên chở hàng hóa như bông vải, cá khô, đồ đất nung Cao Miên...
5. Ghe cá hay ghe rỗi là thứ thuyền nhỏ có mái che suốt, dùng để chuyên chở và nuôi cá sống.
6. Ghe cui cũng như ghe be, có hoặc không có mái, nhỏ gọn, dùng để chuyên chở hàng vặt.
7. Ghe ró là thuyền đánh cá, phía mũi chuyên chở đồ nghề lỉnh kỉnh vượt ra ngoài xa có mắc lưới thả xuống nước với mồi để câu cá mắc lưới hoặc bơi theo dòng chảy mà vào lưới.
8. Ghe mui ống là thuyền có mái uốn vòng. Dùng vào nhiều việc, nhưng không đủ lớn để có mái cố định, vì thế người ta chỉ làm mái tạm thời theo hình nửa vòng tròn dễ tháo ra lắp vào.
9. Ghe lường là thứ ghe thường làm bằng một thân cây, không có mái và thường có hai hay ba cọc chèo.
10. Ghe vạch hay ghe mũi vạch có mũi nhọn như một dao vạch bằng ngà mà phụ nữ thường dùng vạch trên lụa vải mỏng những đường cho kéo theo đấy mà cắt. Ghe này dùng để chuyên chở hành khách hay hàng hóa.
11. Ghe câu là tất cả loại ghe lớn hay nhỏ dùng chuyên vào nghề câu.
12. Ghe rõi đón là ghe nhỏ độ năm hay sáu sải chèo, không mái, rất gọn nhẹ, nhằm đi đón trước các ghe câu cá lớn để sớm mua được cá, hoặc mua được cá còn tươi sống.
13. Ghe đò là ghe chở hành khách qua sông thì gọi là đò ngang, chạy dọc theo sóng thì gọi là đò dọc.
14. Ghe ngo là ghe Cao Miên rất dài, khoét trong một thân cây, chỉ dùng trong các cuộc đua thuyền.
15. Xuồng là thuyền nhỏ không mái, không bơi chèo, khoét trong một thân cây, dùng để chuyển tải phẩm vật qua rạch nhỏ và đẩy bằng tay.
16. Xuồng ong là ghe nhỏ và nhẹ nhàng, bơi bằng giầm qua suối rạch trong mùa lũ lụt để đi tìm mật ong và sáp ong.
II. Tầu thuyền làm việc nhà nước
1. Ghe hầu như ghe lồng, nhưng có mái theo hình đặc biệt, từ mũi xuống cuối ghe có sơn vạch đỏ suốt chung quanh, dùng để chuyên chở quan chức hay người làm việc công. Người ta dựng ở đuôi ghe hai cọc biểu hiệu, một cọc trang trí bằng lông công, cọc kia gắn một tượng cá gỗ mà đuôi tượng trưng làm cờ hiệu, trên đoạn gỗ gắn hai cột đó người ta treo hai quả chuông nhỏ.
2. Ghe lê là thứ thuyền khác giành cho quan chức. Ở hai mắt mũi thuyền, người ta thay bằng hai mẫu điêu khắc đặt trên nền đỏ.
3. Ghe son là thuyền có những mảng lớn sơn màu đỏ chạy quanh thuyền.
4. Ghe ô là thuyền lớn sơn đen, gần như không mái, rất dài, nhiều cọc bơi chèo, dùng để chuyên chở binh lính, lương thực và vũ khí.
5. Ghe hồng là thuyền quốc gia, sơn mầu hồng, dùng để chuyển chở sĩ quan và quan chức.
6. Ghe quyển có hình mũi như một quyển sách mở, có mái che suốt con thuyền, dùng để chuyên chở binh lính.
7. Ghe diễu có các mép cơi cao lên bằng chì, bằng sắt hay bằng thiếc, dùng để vận tải các đồ nặng như súng thần công, tảng đá lớn, v.v...
8. Tam bản bình kiện là tầu lớn với mép tầu phía mũi và phía đuôi đều cơi cao, dùng để vận tải mọi thứ cần thiết.
9. Hải vận là tầu chuyên chở của nhà binh trên đường biển.
10. Hải đạo là tầu thuyền lớn có mái che khá cao, để dùng trong chiến trận, đằng mũi cũng như phía hậu đều có đại pháo, bên phải có hai đại pháo, bên trái cũng có hai đại pháo. Các thủy thủ bơi chèo đều ở vị trí an toàn và kẻ địch không nhìn thấy.
Petrus Trương Vĩnh Ký
Nguyễn Đình Đầu (dịch)
* Petrus Trương Vĩnh Ký, Notes sur les diverses espèces de bateaux annamites. Bulletin du Comité agricole et industriel de la Cochinchine - BCAI 2e série. Tome 1. No IV – 1875. Trang 222-226.
http://www.cgvdt.vn/van-hoa-nghe-thuat/ta-i-lie-u/petrus-truong-vinh-ky-chu-giai-ve-cac-loai-tau-thuyen-cua-an-nam_a703
NGƯỜI VIỆT NAM 100 NĂM TRƯỚC
Unpublished- Category: lsmt vn
- Hits: 321
Bộ ảnh hiếm quý về NGƯỜI VIỆT NAM 100 NĂM TRƯỚC
Bộ ảnh hiếm quý về
Máy ảnh ra đời từ năm 1826 tại Pháp, vì vậy các thuộc địa ở Đông Dương, gồm cả Việt nam, đã có ảnh chụp từ rất sớm và có mặt trong những thước phim đầu tiên. Dưới đây là chùm ảnh hiếm về con người Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ 19.
Nữ nghệ sĩ đàn tranh Sài Gòn sang Pháp biểu diễn ở Hội chợ thuộc địa Marseille năm 1906.
Vua Duy Tân đăng quang lúc 7 tuổi năm 1907.
Nghệ sĩ hát bộ ở Nam kỳ năm 1890.
Tinh Hoa – Chia sẻ tin tức thời sự, tâm linh, bí ẩn cuộc sống
tinhhoa.net
Nơi giúp bạn khám phá những điều bí ẩn của cuộc sống và nuôi dưỡng tâm hồn. Xem bài viết hay về Tâm linh, đọc và suy ngẫm …
Nhà bác học Jean-Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký và một lớp học của ông vào khoảng năm 1865.
Đoàn sứ bộ An Nam sang Pháp xin chuộc đất (3 tỉnh miền Đông bị Pháp chiếm) năm 1863, Chánh sứ Phan Thanh Giản ngồi giữa, ảnh này bị thiếu một người quan trọng: Thông ngôn Trương Vĩnh Ký.
(Ảnh: Emile Gsell)
Săn cọp ở Nam kỳ đầu TK 20.
Chuyện lạ có thật – Chuyện lạ Việt Nam – Chuyện khó tin …
tinhhoa.net
Chuyện lạ có thật mới nhất, chuyen la viet nam, những chuyen kho tin nhưng có thật, chuyen la the gioi, chuyen la do day….
Những người phụ nữ đang đánh bài ở Sài Gòn đầu thế kỷ 20.
Những em bé Saigon đầu thế kỷ 20.
Nam kỳ, Chợ Lớn – người Hoa đang nhổ lông vịt, khoảng năm 1920.
Nam kỳ, người Việt bản địa chăm sóc cá sấu (trong vườn thú công viên) ở Mỹ Tho, năm 1912.
Nha Trang – Khánh Hòa năm 1926, những người phụ nữ đang phụ đúc bê tông.
Một trong những tấm ảnh màu đầu tiên năm 1913
Quan Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu và gia đình.
Tổng đốc Hà Đông – Hoàng Trọng Phu.
Nghệ sĩ Năm Phỉ hồi thơ ấu (1916) và thời hoàng kim (1936).
Hiệp biện đại học sĩ – Quan Khâm sai – Chánh sứ Phan Thanh Giản 1863.
Hình chụp tại Paris nhân dịp ông dẫn đầu sứ bộ sang Pháp để xin chuộc đất. Ông quê ở làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Đậu cử nhân năm 1825, năm sau đậu tiến sĩ, ông là người đạt học vị cao nhất đầu tiên ở Nam Kỳ. Tính tình cương trực và thanh liêm, Phan Thanh Giản làm quan nhà Nguyễn trải qua ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và cũng từng bị giáng chức rồi lên chức nhiều phen”… Cho tới những ngày đầu năm 2008, Viện Sử học Việt Nam mới thống nhất kết luận rằng “Phan Thanh Giản là người nổi tiếng về đạo đức, có nhiều đóng góp trong lịch sử dân tộc; nên đề nghị tôn vinh ông, cho khôi phục, tôn tạo những di tích và những gì gắn liền với ông”; và đã được giới chức chấp thuận…
Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ và Vua Gia Long – Nguyễn Ánh, 2 đối thủ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ 18.
Đây là 2 chân dung đã được đánh giá là chân thực nhất về hai ông được tái hiện từ những tranh vẽ xưa, tiền xưa do Pháp và nhà Thanh vẽ.
Tứ đại mỹ nhân Hà thành năm 1930, từ trái qua, trên xuống:
cô Phượng Hàng Ngang, cô Síu Cột Cờ, cô Nga Hàng Gai và cô Bính Hàng Đẫy.
Vua Thành Thái năm 1900, 21 tuổi – vị vua thứ 10 của triều Nguyễn.
Đôi vợ chồng người Bắc (Tonkin) khoảng năm 1890. Áo tơi bằng lá mà cô gái mặc
cho đến nay vẫn còn được sử dụng và có một làng ở Hà Tĩnh chuyên sản xuất nó.
Cụ Đề Thám và các con năm 1890 (có nơi ghi là cháu).
Một cụ ông người Bắc (Tonkin) làm nghề thợ săn – năm 1890.
- Category: lsmt vn
- Hits: 558
Nước Việt ta đã trải qua vô số thời kỳ lịch sử gắn với các giai đoạn phát triển cụ thể về bản sắc văn hoá, phong tục tập quán. Đặc biệt trang phục của người Việt trong từng giai đoạn đã tạo nên những dấu ấn rất riêng, đặc biệt là trang phục của người phụ nữ (Artwork by Nancy Dương).
- Category: lsmt vn
- Hits: 552
(bài viết của Họa sĩ Đức Hòa)
- Category: lsmt vn
- Hits: 618
Tết cổ truyền là dịp để tìm hiểu về tổ tiên, cội nguồn. Trên tinh thần như thế, Mùng 2 tết mậu tuất sẽ dành cho bài viết "Về Chữ viết của người Việt Nam" được trích từ các trang người việt yêu nước ở hải ngoại.
- Category: lsmt vn
- Hits: 567
Tranh dân gian là một phần quan trọng trong toàn bộ nền văn hoá Việt Nam, ở đó thể hiện những nét độc đáo trong sinh hoạt, vui chơi, lễ hội và truyền thống dân tộc…
- Category: lsmt vn
- Hits: 575
Bài này sưu tầm trên mạng xã hội có rất nhiều người chia sẻ, cho thấy mức độ tâm đắc của suy nghĩ người Việt Nam đương thời
- Category: lsmt vn
- Hits: 1216
Được tạo hình với sự sáng tạo vượt qua mọi chuẩn mực, 18 vị La Hán chùa Tây Phương đã trở thành tác phẩm kinh điển của nền nghệ thuật cổ Việt Nam.
- Category: lsmt vn
- Hits: 523
Cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, nhiều họa sĩ Pháp đã tìm tới Việt Nam như một điểm đến khơi nguồn cảm hứng hội họa.
- Category: lsmt vn
- Hits: 606
Từ khoảng giữa thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, ở việt nam, đặc biệt là ở miền bắc, xuất hiện một loại hình nghệ thuật độc đáo đậm nét dân tộc, đó là Đình Làng.
- Category: lsmt vn
- Hits: 656
Cùng với Đông Sơn và Sa Huỳnh trong giai đoạn từ 2000 năm TCN đến đầu CN, văn hoá Đông Nam Bộ (hay còn gọi là văn hoá Đồng Nai) là 1 trong 3 trung tâm văn hoá lớn đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam sau thời kỳ đồ đá
- Category: lsmt vn
- Hits: 578
Nhắc lại là sau thời kỳ đồ đá, trên lãnh thổ Việt Nam có 3 trung tâm văn hoá lớn, cũng là 3 trung tâm văn hóa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, là Đông Sơn (miền bắc), Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai ở miền nam ở giai đoạn từ 2000 năm TCN đến đầu CN.
- Category: lsmt vn
- Hits: 622
Tiếp theo của văn hóa Đông Sơn ở miền bắc.
- Category: lsmt vn
- Hits: 581
Phần trước chúng ta nói về "thời kỳ hình thành cơ tầng văn hóa nghệ thuật bản địa", tức là thời tiền sử, tiếp ngay sau thời kỳ này là "Thời kỳ xác lập bản sắc văn hóa Việt ", là thời kỳ định hình bản sắc văn hóa việt nam trước khi có sự xâm lăng từ phương bắc.
- Category: lsmt vn
- Hits: 1118
Nguyên thủy là thời kỳ đầu tiên của xã hội loài người, là thời kỳ đồ đá của chế độ công xã nguyên thủy, cũng đồng nghĩa với thời tiền sử, là giai đoạn lịch sử trước khi có chữ viết ghi chép lại.